Con đường chinh phục thế giới của các biểu tượng Emoji

Hiện nay chúng ta đã quen với các biểu tượng tròn tròn vàng vàng, hay còn gọi là emoji, vì nó được sử dụng vô cùng rộng rãi trong các cuộc đối thoại trên mạng. Nó giúp cho cuộc trao đổi của chúng ta vui vẻ hơn, sinh động hơn. Đây cũng là công cụ giúp thể hiện được phần nào cảm xúc của người viết, thứ không đơn giản chỉ có thể biểu thị qua những dòng chữ trên màn hình. Vậy sự ra đời của Emoji ra sao và làm thế nào mà những biểu tượng này có thể trở nên phổ biến như ngày hôm nay? Mời các bạn cùng theo dõi câu chuyện được kể bởi chính cha đẻ của Emoji.

Trước hết chúng ta hãy nói một chút về chữ emoji. Chữ này có nghĩa là “hình tượng” và nó được kết hợp từ chữ “hình ảnh” (e) và “chữ” (moji). Mỗi biểu tượng emoji có thể được xem là một “kí tự”. So với emoticon, Emoji khác ở chỗ nó là những biểu tượng, ví dụ như  . Ngoài những gương mặt như trên, emoji còn có rất nhiều hình ảnh khác, chẳng hạn như , một số còn mang đậm văn hóa Nhật như biểu tượng người cúi đầu chào, một người đeo khẩu trang, mì ramen, sushi, cà ri Nhật… Những nhà mạng lớn ở Nhật như NTT DoCoMo, au, Softbank đều có một bộ emoji của riêng mình. Mãi đến gần đây mới bắt đầu có những động thái chuẩn hóa.

Trong khi đó, theo Wikipedia, emoticon là những “khuôn mặt” được cấu tạo từ các kí tự trên bàn phím, ví dụ như 🙁 :”> 😕 😉 :-w. Khi gõ lên một số dịch vụ, ứng dụng, trang web, diễn đàn online (như Tinh tế chẳng hạn), các kí tự này sẽ được thay thế bởi hình ảnh tương ứng và người ta cũng gọi nói là emoticon. :);):(:mad::D. Trên những hệ điều hành được hỗ trợ, bạn có thể dễ dàng copy, cắt, dán các emoji vào khung soạn thảo văn bản bởi chúng là những biểu tượng và OS đối xử với nó như bao chữ cái khác. Còn những hình ảnh như icon mặt cười của Tinhte, của Yahoo, Facebook thì khi bạn copy vào khung soạn thảo, chúng sẽ mất đi hoặc thậm chí là không cho paste.

Mặc dù xuất hiện đầu tiên ở Nhật, hiện nay một số emoji đã được tích hợp vào bảng mã Unicode, nhờ vậy mà chúng ta có thể dùng được emoji ở nhiều nơi. Các máy Windows Phone 7 và iPhone cho phép người dùng truy cập vào những emoji mà không cần đến các nhà mạng Nhật Bản. Emoji cũng đã xuất hiện torng Gmail và nhiều trang web cũng như dịch vụ email khác. Nhiều ứng dụng SMS trên Android cũng được tích hợp hoặc có plugin để dùng Emoji. OS X 10.7 trở đi cũng đã hỗ trộ Emoji.

Sự ra đời của Emoji

Năm 1995, máy nhận tin nhắn (pager, có người gọi là máy nhắn tin) trở thành cơn sốt trong giới trẻ Nhật Bản. Nếu bạn chưa biết máy nhắn tin là thì đó là một tổ hợp thiết bị – dịch vụ dùng để liên lạc với nhau trước khi điện thoại di động trở nên phổ biến. Máy nhắn tin thực chất cũng đã từng có mặt ở Việt Nam và cũng được khá nhiều người sử dụng trong những năm cuối thập niên 90. Khi đăng kí sử dụng chiếc máy này, bạn sẽ được cấp một số độc nhất, có tác dụng giống số điện thoại. Lúc cần nhắn gì cho bạn, người thân hay bạn bè sẽ gọi lên một tổng đài, nói với tổng đài viên nội dung cần nhắn và họ sẽ chuyển thông điệp đó đến thiết bị nhỏ nhỏ mà bạn đang cầm trong tay. Tức là thay vì bạn nhắn SMS trực tiếp thì bây giờ chúng ta phải gián tiếp thông qua một cô tổng đài dễ thương nào đó. Có một số máy pager hai chiều, tức bạn cũng có thể nhắn lại, nhưng không phổ biến lắm.

Chà, nãy giờ nói hơi nhiều về máy nhắn tin, giờ thì quay trở lại vấn đề chính nào. Khi máy nhắn tin trở nên phổ biến tại Nhật, nhà mạng NTT Docomo quyết định thêm biểu tượng trái tim vào dịch vụ của mình để giúp các bạn học sinh trung học thể hiện được tình cảm (và cả sự đáng yêu) thông qua hàng triệu tin nhắn được gửi đi mỗi ngày. Docomo đã rất thành công và thị phần máy nhắn tin của hãng lên đến 40% ở Nhật. Lúc đó, Docomo cung cấp cho khách hàng của mình chiếc máy nhận tin nhắn của Pocket Bell.

Khi phiên bản Pocket Bell mới ra đời, nó không còn hỗ trợ hiển thị biểu tượng trái tim nữa mà thay thế bằng những thứ thân thiện với việc kinh doanh, ví dụ như chữ Kanji, kí tự Latin alphabet. Chính vì thế mà giới trẻ nhanh chóng rời bỏ dịch vụ của Docomo và tìm đến sản phẩm của đối thủ Tokyo Telemessage. Vào thời điểm mà Docomo nhận ra rằng họ đã đánh giá sai về nhu cầu đối với những máy nhắn tin “business”, nhà mạng này rất cần một thứ gì đó đủ mạnh để kéo những khách hàng cốt lõi của mình quay trở lại. Và thứ đó chính là emoji.

Shigetaka Kurita là người đã tạo ra emoji, và trong thời gian anh làm việc tạo Docomo, anh đã trực tiếp nhận thấy sự thay đổi về nhu cầu của người sử dụng các máy nhắn tin. Lúc đó anh đang là một thành viên thuộc nhóm i-mode – dự án được tạo ra để thiết lập một nền tảng Internet di động toàn cầu, trong đó bao gồm những thứ như dự báo thời tiết, đọc tin tức, xem email… i-mode sau đó trở nên phổ biến và nó đã giúp người Nhật sử dụng được những thứ mà phải 10 năm sau thế giới mới được tiếp cận.

I-MODE

i-mode là một dịch vụ Internet di động tích hợp được tạo ra bởi NTT Docomo. Được triển khai vào tháng 2 năm 1999, i-mode cung cấp một bộ các dịch vụ được biết rằng ngôn ngữ Compact HTML, trong đó có những dịch vụ dùng để dự báo thời tiết, đặt chỗ ở các dịch vụ giải trí và du lịch, xem tin tức, duyệt email. Ở những buổi đầu, i-mode có thể xem là một “khu vườn kín” bởi các công ty cung cấp nội dung đòi hỏi Docomo phải đưa website của họ đến với khác hàng thông qua cổng thông tin có tính chọn lọc cực kì cao của nhà mạng. Nhưng không giống như App Store hay Google Play, các nhà cung cấp nội dung cho i-mode thu đến 91% doanh thu từ các dịch vụ mà người dùng đăng kí với giá 100 yên đến 300 yên mỗi tháng (khoảng 0,85$ đến 2,50$ tính theo tiền tệ năm 2000). Và mặc dù Docomo kiểm soát cổng trực tuyến của mình rất chặt, người dùng vẫn có thể truy cập vào trang web bên ngoài bằng đường link gửi trong email hay nhúng trong mã QR (cũng giống như việc chúng ta cài app bằng file APK vào Android vậy).

i-mode ngay lập tức trở thành một cú hit ở Nhật, và trong chỉ hai năm Docomo đã có 20 triệu người dùng đăng kí sử dụng dịch vụ này, đến năm 2004 thì tăng thành 40 triệu. Một thời gian ngắn sau khi i-mode trình làng, những nhà mạng đối thủ như J-Phone (giờ là Softbank) và DDI Cellular Group (giờ là AU KDDI) cũng nhanh chóng triển khai dịch vụ J-Sky và EZweb dựa trên giao thức WAP, nhưng cả hai đều không thành công như sản phẩm của Docomo.

Docomo thực chất cũng đã thử cung cấp bản quyền i-mode sang các nước Châu Âu và Châu Á trong những năm 2000, tuy nhiên đến nay thì dịch vụ này đã hoàn toàn biến mất ở những nước này. Chỉ có ở Nhật Bản, i-mode hiện vẫn duy trì số lượng người dùng là 35 triệu, trong đó gần phân nửa là những người đã trên 50 tuổi.

Tuy nhiên, ở thời điểm dự án mới bắt đầu, nhóm i-mode cần phải có được những ý tưởng tốt, do đó họ muốn xem những ứng dụng về mobile Internet mà các nước khác đang làm. Kurita cùng nhóm của mình đáp chuyến bay đến San Francisco vào năm 1998 để xem dịch vụ Pocket Net của AT&T. Đây là dịch vụ đầu tiên trên thế giới có khả năng cung cấp những thứ như email, dự báo thời tiết thông qua một mạng di động. Nó sử dụng dịch vụ gửi dữ liệu số dạng gói (CDPD) của AT&T và có thể đạt tốc độ truyền tải là 19Kbps (để dễ so sánh thì mạng 4G LTE của AT&T hiện nay có tốc độ 9,6Mbps, nhanh hơn 500 lần).

Kurita nói: “Ở thời điểm đó, cấu hình của các thiết bị cầm tay rất thấp, do đó nó không thể hiển thị được một số nội dung đa phương tiện, như hình ảnh chẳng hạn”. Pocket Net có thể cung cấp tin tức về thời tiết, nhưng những hiện tượng như “trời nhiều mây” hay “trời nắng” chỉ được biểu thị bằng chữ mà thôi. Việc thiếu đi một cách hiển thị trực quan khiến dịch vụ này khó sử dụng hơn ý tưởng ban đầu, và Kurita nhận ra rằng trải nghiệm của các khách hàng ở AT&T có thể tốt hơn bằng cách thêm vào một số kí tự để hiển thị những thông tin tùy theo ngữ cảnh.

Cũng trong khoảng thời gian đó (thật ra là trước đó 3 năm), Windows 95 chính thức được Microsoft ra mắt, và email cũng đang trên đà phát triển tại Nhật cũng giống như xu hướng của máy nhắn tin. Tuy nhiên, Kurita nói rằng người ta khá “chật vật” khi phải làm quen với cách thức giao tiếp mới này. Trong văn hóa của Nhật, những lá thư cá nhân rất dài, trong đó chứ đầy những lời chúc nhau cũng như những lời nói đầy kính cẩn để thể hiện lòng tốt của người gửi thư đối với người nhận. Trong khi đó, email lại ngắn và có bản chất “đời thường” hơn nên nó khiến người ta không thoải mái khi sử dụng. “Nếu có ai đó nói Wakarimashita (có nghĩa là tôi hiểu rồi), bạn sẽ không biết được rằng người ta hiểu một cách vui vẻ hay “ừ đấy, tôi hiểu rồi”, tức mang hơi hướng tiêu cực”, Kurita nói. “Bạn không biết được những gì đang xuất hiện trong đầu người viết.”

Việc đối thoại trực tiếp với nhau, và ngay cả trên điện thoại, cho phép bạn đánh giá được trạng thái tâm lý của người kia như thế nào nhờ vào giọng nói, và tương tự như thế, là thư dài giúp người ta bày tỏ được những thông tin ngữ cảnh. Chính sự thiếu hụt về khả năng này đã khiến cho việc giao tiếp trong thời đại kĩ thuật số trở nên khó khăn, người ta cảm thấy xa cách nhau hơn, trong khi mục tiêu của việc giao tiếp kĩ thuật số là mang thế giới lại gần nhau.

Kurita chia sẻ: “Và đó là thời điểm mà chúng tôi nghĩ rằng, nếu có những thứ như emoji, chúng tôi có thể vẽ ra được những khuôn mặt. Chúng tôi đã có kinh nghiệm với biểu tượng trái tim rồi, do đó chúng tôi nghĩ điều đó (khuôn mặt emoji) là điểu hoàn toàn có thể làm được”. Thực chất vào thời điểm đó người ta cũng bắt đầu biết đến kaomoji, tức là cách sử dụng những kí tự ASCII để biểu thị cảm xúc, dạng như (^_^) (*´▽`*)(≧▽≦)(っ^_^)っ (つ゚⊿゚)つ. Tuy nhiên, theo Kurita, giải pháp này thực sự rất khó bởi người ta phải nhập rất nhiều kí tự từ bàn phím điện thoại (và không có bàn phím QWERTY đâu nhé), thế nên anh muốn tìm một thứ đơn giản hơn.

Thiết kế nên emoji

Bản thân Kurita không phải là một nhà thiết kế (anh chuyên về kinh tế hơn), kế hoạch của người nhân viên trẻ tuổi này là vẽ ra một số ý tưởng để kêu gọi sự giúp đỡ từ những nhà sản xuất lớn như Sharp, Panasonic, Fujitsu – những công ty có kinh nghiệm về thiết kế. Tuy nhiên, anh đã ngạc nhiên khi biết rằng những công ty này không chia sẻ chung nhiệt huyết của anh vào thời điểm đó. “Họ kiểu như ‘làm ơn đi, anh sẽ là người thiết kế chúng’. Họ có rất nhiều lý do, ví dụ như đây chỉ là những thiết bị đầy tiên hỗ trợ i-mode, họ không có nhiều người lực, đại loại như thế”. Khi phải đối mặt với quá ít lựa chọn, Kurita lấy vài tờ giấy, một cây bút chì, tập trung nhóm của anh lại và họ bắt tay vào làm việc, ngay cả khi họ chưa biết mình sẽ phải làm gì. Kurita nhắm đến việc tạo ra một bộ 176 biểu tượng kích thước 12 x 12 pixel có khả năng biểu thị hết trạng thái cảm xúc của toàn bộ nhân loại.

Để có cảm hứng, Kurita nhìn vào nhiều yếu tố khác nhau trong tuổi thơ của chính mình, trong đó có những thứ như truyện tranh manga hay chữ kanji. “Trong thế giới truyện tranh Nhật Bản, có rất nhiều biểu tượng khác nhau. Người ta vẽ ra cảm xúc của con người bằng những giọt mồ hôi, biểu tượng bóng đèn. Do đó có nhiều tình huống mà tôi đã dựa vào đó như một lời gợi ý để sắp xếp mọi thứ lại”. Từ chữ kanji, anh cũng tìm được cách biểu thị cảm xúc chỉ bằng một kí tự duy nhất.

Để hiển thị những biểu tượng này, Docomo quyết định sử dụng một vùng chưa dùng tới trong bảng mã Shift JIS của Nhật. Cứ mỗi một mã 2 byte sẽ tương ứng với một hình ảnh và tất cả đều sẽ được tích hợp vào những điện thoại của Docomo giống như bao kí tự khác. Người dùng sau đó có thể thêm những emoji vào thư của mình bằng cách chọn nó trong một giao diện bên trong ứng dụng Email. Docomo không chỉ nhắm đến việc sử dụng emoji trong thư điện tử mà họ còn muốn cho các nhà cung cấp nội dung truy cập vào kho biểu tượng và hiển thị nó lên các trang web i-mode. Zagat, Pia là hai trong số những nhà cung cấp nội dung đầu tiên tham gia vào chương trình thử nghiệm việc sử dụng emoji, do đó logo của họ có trong bộ mã của Softbank (nhưng khoảng một hai năm sau thì chúng đã bị xóa đi khi hết hợp đồng).

Với một tấm lưới 12 x 12, Kurita phải tận dụng tối đa không gian trong các bản vẽ của mình, do đó những kí tự mà anh vẽ ra cực kì đơn giản. Ví dụ, khuôn mặt cười đầu tiên chỉ có một cái miệng hình chữ nhật và hai chữ V úp ngược lại để diễn ra hai con mắt. Thực chất, những emoji nguyên bản trông rất khác so với những khuôn mặt màu vàng hiện nay.

Khi được hỏi về lời nhận xét của Giáo sư Scott Fahlman, người nổi tiếng vì tạo ra emoticon, rằng emoji là ngớ ngẩn, Kurita thừa nhận “Đúng, chúng quả thật hơi ngớ ngẩn một chút”. Nếu như nhà mạng au và các đối thủ cố gắn chuyển emoji thành các hình ảnh (image) thì Kurita lại xem emoji như là các biểu tượng (symbol). Vì biểu tượng thì gần giống với các chữ cái nên nó sẽ không bị tách biệt hoàn toàn khi chèn vào một câu chữ, và chúng ta cũng có thể dễ dàng chỉnh kích thước của nó như những symbol khác.

Vấn đề thiếu đồng nhất của emoji

Khi anh đã hoàn thành việc thiết kế bằng tay, Kurita nghĩ rằng những nhà sản xuất đã từ chối khéo anh trước đây sẽ thêm vào các nét hoàn thiện cuối cùng để tác phẩm trở nên đẹp hơn, trông chuyên nghiệp hơn. “Tuy nhiên ai cũng lấy đúng những gì chúng tôi có và đưa vào ứng dụng y như thế”, anh nói và cười. “Thế nhưng, điểm tốt ở đây đó là emoji của mọi người đều hoàn toàn giống nhau. Nếu mỗi nhà sản xuất lại thêm một chút gì đó khác biệt vào những biểu tượng này, emoji có thể đã trở nên rối tung và không đồng nhất, ngay cả trong nội bộ Docomo”.

Mặc dù vậy, sự thống nhất đó cũng không kéo dài lâu. Docomo không thể đăng kí bản quyền bộ emoji của mình (người ta nói với DoCoMo rằng “đây chỉ là những khối 12 x 12”), điều đó có nghĩa là những đối thủ như Au và J-Phone (sau này trở thành SoftBank) cũng có thể sử dụng emoji của Docomo. Thế nhưng hai nhà mạng đối thủ này lại thiết kế các biểu tượng của mình, họ thêm vào nhiều hình ảnh hơn, các hình ảnh thì trở nên chi tiết hơn, thậm chí một số còn có hiệu ứng chuyển động, để giữ chân khách hàng của mình.

Từ một thứ đáng lý ra phải đồng nhất, emoji trở thành một tập hợp những biểu tượng khác nhau ngay cả khi chúng cùng biểu thị một nội dung, và emoji gửi từ nhà mạng này sang mạng khác thì không thể đọc được. Mãi đến năm 2005 thì ba nhà mạng này mới chịu “dịch” emoji theo đúng với bộ emoji do mình sở hữu. Hồi năm ngoái, trong nỗ lực chuẩn hóa emoji, nhà mạng Au quyết định tái thiết kế lại bộ emoji của mình cho giống với bộ nguyên gốc của Docomo, và nỗ lực đó nhận được sự giúp sức của Kurita. Mặc dù vậy, hiện nay vẫn còn có rất nhiều bộ biểu tượng tùy theo nhà mạng và điện thoại của người dùng. Hiện nay bộ sưu tập emoji của Docomo có 250 biểu tượng, không tính những cái có chuyển động. Trong khi một số thiết bị lại có khả năng hiển thị đến 800 emoji.

Trong lúc trao đổi về việc chuẩn hóa, phóng viên của trang The Verge hỏi Kurita rằng anh cảm thấy như thế nào khi biết rằng emoji giờ đây đã được bổ sung vào bảng mã Unicode, bộ mã chuẩn của toàn ngành công nghiệp máy tính và được hiển thị trên hầu hết những máy tính hiện nay. Kurita giải thích rằng mặc dù hiện tại anh đã nghỉ làm ở Docomo, anh vẫn rất vui vì cột mốc này, nhưng bị thất vọng bởi vì việc áp dụng emoji bị phân mảnh nhiều quá. “Au cũng đã làm bộ emoji của họ giống với Docomo. Và mọi chuyện đáng ra thật tuyệt nếu như họ (Unicode) cũng dùng chung chuẩn đó”.

Hiện những nhà mạng của Nhật vẫn chưa chuẩn hóa được một bộ biểu tượng chung nhưng điều đó không ngăn được emoji vươn ra tầm thế giới. Apple đã hỗ trợ một biến thể của bộ emoji do SoftBank thiết kế trong bản cập nhật iOS 2.2, ít nhất là ở Nhật. Khi iOS 5 xuất hiện vào cuối năm 2011, Apple đã chính thức nhúng emoji vào tất cả các máy iOS của mình. Lúc người dùng biết được cách kích hoạt emoji, những biểu tượng ngộ nghĩnh như gương mặt thè lưỡi, gương mặt lính dần xuất hiện nhiều hơn trên Twitter, Instagram, Tumblr. Ngày nay, chúng ta có thể thấy được những biểu tượng này ở khắp mọi nơi, từ những tin nhắn thân mật cho đến các dự án có liên quan đến emoji. Yahoo, Google Talk, Skype có những biểu tượng của riêng mình, nhưng chúng cũng trông giống với emoji và cũng dựa trên cùng một ý tưởng như thế.

Phóng viên The Verge tiết tục hỏi Kurita rằng anh nghĩ như thế nào khi thấy những đứa con của mình được phát triển trên toàn cầu, anh đáp: “Tôi rất hạnh phúc, nhưng thật lòng mà nói, đây không phải là thứ mà tôi có thể thật sự hiểu rõ. Nó rộng lớn quá, anh biết đấy”. Anh tiếp tục nói rằng anh rất tò mò về cách mà những người thuộc các nền văn hóa khác nhau sử dụng cùng một biểu tượng. “Tôi thật sự muốn biết rằng chúng được sử dụng giống nhau ở mức độ nào, và chúng được bản địa hóa ở mức nào. Tôi nghĩ rằng emoji trái tim được dùng bởi nhiều người với cùng một mục đích, nhưng rồi sẽ có những thứ mà chỉ có người Nhật mới hiểu, hoặc chỉ người Mỹ mới hiểu… Thật tuyệt vời nếu như chúng ta có thể so sánh chuyện đó, để rồi mọi người có thể bắt đầu sử dụng emoji theo một cách giống nhau”. Kurita mong muốn emoji có thể trở thành một thứ “ngôn ngữ cơ thể” cho thế giới web.

Khi ra về, phóng viên The Verge hỏi Kurita một câu cuối cùng: “Anh nghĩ sao khi một cô gái gửi cho anh biểu tượng trái tim trong tin nhắn?” Kurati đáp: “Tôi không biết là cô ấy có thích tôi hay không”, anh cười, “nhưng tôi chắc chắn nghĩ rằng đây là một điều tốt đẹp. Tôi sẽ không nghĩ đó là một chuyện xấu”.

Nguồn The Verge